Cục trưởng Cục Hàng hải VN Nguyễn Nhật chia sẻ về những nội dung mới được bổ sung, sửa đổi của Bộ luật Hàng hải VN. Dự thảo Bộ luật vừa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến, thống nhất sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 10/2015.
Tạo điều kiện thuận lợi cho DN, người dân hoạt động hàng hải
Quá trình thực thi Bộ luật Hàng hải năm 2005, một số ý kiến doanh nghiệp (DN) cho rằng, chưa phù hợp với thực tế Việt Nam và các quy định trong giao dịch quốc tế, lần này dự thảo đã sửa đổi như thế nào, thưa ông?
Sau 10 năm triển khai thực hiện, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 tuy được soạn thảo công phu, có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển hội nhập của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành Hàng hải nói riêng, song không tránh khỏi một số quy định đã bị lạc hậu. Hơn nữa, đến nay Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế nên xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn trong tiến trình hội nhập và quan điểm về xây dựng luật, các quy định mang tính chất khung không còn phù hợp, cần những quy định mang tính đột phá, cải cách để ngành hàng hải phát triển xứng tầm với Việt Nam là quốc gia giàu, mạnh từ biển.
"Các nội dung quy định được sửa đổi, bổ sung lần này cũng hoàn toàn phù hợp và đáp ứng quy định của các Công ước, điều ước, tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và xu thế phát triển, tình hình thực tiễn của hoạt động hàng hải Việt Nam, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển”.
Ông Nguyễn Nhật
Cục trưởng Cục Hàng hải VN
|
Từ những quan điểm nêu trên, công tác sửa đổi Bộ luật Hàng hải Việt Nam được thực hiện theo các nguyên tắc: Bảo đảm tính kế thừa Bộ luật 2005, chỉ sửa đổi hoặc bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh, quy định chưa rõ, còn thiếu thống nhất; bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển, hội nhập; Đáp ứng yêu cầu và tạo điều kiện thúc đẩy phát triển, hội nhập của hệ thống cảng biển nước ta theo hướng quy mô lớn, hiện đại và bảo đảm tốt nhu cầu lưu thông hàng hóa, hành khách trong nước, với nước ngoài; Bảo đảm tính phù hợp, thống nhất với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hiện hành thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Nâng lên thành Luật một số quy định trong VBQPPL hướng dẫn thi hành Bộ luật 2005 đã ổn định và phù hợp với thực tế.
Các nội dung được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật Hàng hải lần này đã đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đi lại của nhân dân, đặc biệt chú ý đến cải cách thủ tục hành chính (TTHC), tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động giao thông hàng hải.
Bộ luật Hàng hải Việt Nam được sửa đổi theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 - người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, vậy những quy định cấm gồm những nội dung gì, thưa ông?
Ngoài 10 hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng hải được quy định tại Điều 10 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005, dự thảo Luật dự kiến bổ sung thêm ba hành vi bị nghiêm cấm gồm: cướp biển hoặc có hành vi bất hợp pháp chống lại hoạt động hàng hải; Ngăn chặn, cản trở quyền tự do hành hải trên biển; Tự ý đưa giàn khoan di động vào hoạt động, lắp đặt thiết bị, công trình, đảo nhân tạo trong vùng biển Việt Nam khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền theo quy định.
Đây là những hành vi cấm không nhằm hạn chế quyền của người dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013 mà có ý nghĩa tăng cường bảo vệ an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và công tác bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên biển.
Chính quyền cảng là nội dung đột phá nhất
Ông nhận định như thế nào về hai quy định mới của Bộ luật: Chính quyền cảng biển và cho thuê, chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần cơ sở hạ tầng cảng biển? Những quy định mới của Bộ luật Hàng hải Việt Nam sửa đổi lần này sẽ tạo thuận lợi gì cho ngành Kinh tế hàng hải?
Quy định về chính quyền cảng, tôi nhận định là một nội dung đột phá nhất trong tất cả các nội dung sẽ sửa đổi của Bộ luật Hàng hải lần này. Hiện nay, việc tổ chức phối hợp đầu tư cảng ở những khu vực nhất định còn nhiều tồn tại, bất cập, như không có sự kết hợp khai thác sử dụng vùng nước cảng và vùng đất hậu cần sau cảng nên không khai thác được hết hiệu quả kinh tế của khu vực cảng biển; nhiều DN đầu tư, khai thác cảng trong cùng một khu vực mạnh ai nấy làm, tìm mọi cách thu hút hàng hóa đến bến cảng của mình đã tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, ảnh hưởng đến tình hình khai thác cảng chung, dẫn đến việc kinh doanh kém hiệu quả, năng suất thấp, giá cao.
Chính vì vậy, cần có một mô hình tổ chức cho phù hợp để thống nhất được tất cả các lực lượng hướng đến hoạt động cảng được nhịp nhàng, hiệu quả nhất. Chính quyền cảng chính là một tổ chức để thống nhất sự phối hợp từ đầu tư, kinh doanh đến quản lý, khai thác có hiệu quả cảng biển để khắc phục những tồn tại hiện nay. Mô hình chính quyền cảng này không tổ chức đồng loạt tại tất cả các cảng biển trên cả nước, không phải cảng nào cũng có chính quyền cảng. Mà có thể chỉ tổ chức ở những cụm cảng lớn như: khu vực cảng Hải Phòng, khu vực cảng Sài Gòn, Cái Mép-Thị Vải...
Trên thế giới, hầu hết các nước đều có mô hình tổ chức chính quyền cảng (ví dụ: Thái Lan đã có chính quyền cảng từ năm 1951). Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để đặt tên mô hình tổ chức thể hiện đúng bản chất và không bị hiểu lầm nó là một chính quyền nằm trong hệ thống chính quyền hiện nay.
Đối với quy định mới về hình thức cho thuê, chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần cơ sở hạ tầng cảng biển được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa, phát huy nội lực, với định hướng các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, quản lý, khai thác tất cả những lĩnh vực mà họ có thể làm được. Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo ra hành lang pháp lý minh bạch, cơ chế chính sách thông thoáng cho nền kinh tế vận hành. Thực tế cho thấy có nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giao cho tư nhân làm đã phát huy nội lực, huy động được các thành phần kinh tế tham gia.
Cho thuê, chuyển nhượng cho tư nhân kinh doanh, khai thác kết cấu hạ tầng cảng biển, là quy định mới, táo bạo, lần đầu tiên được đưa vào Luật, song là phù hợp với xu thế của nền kinh tế, sẽ tạo bước đột phá thúc đẩy ngành hàng hải nước ta phát triển.
Theo ông, còn có những quy định mới nào của Bộ luật sẽ giúp mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân, DN?
Có thể nói, những quy định sửa Bộ luật lần này là cơ hội để tạo sự đột phá về thể chế, cải cách hành chính, cải cách TTHC và chính sách phát triển kinh tế biển, mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân, DN. Chính sách về hàng hải nói chung và chính sách về thuyền viên nói riêng, về hộ chiếu thuyền viên, đào tạo huấn luyện thuyền viên, về cảng biển, quản lý khai thác kết cấu hạ tầng bến cảng, cầu cảng được đầu tư bằng vốn nhà nước, về hoa tiêu hàng hải... đều có những nội dung mới, đáp ứng được mong đợi của người dân và DN hoạt động trong lĩnh vực hàng hải.
Hiện nay, hộ chiếu thuyền viên không thay thế được hộ chiếu phổ thông nên cùng lúc thuyền viên phải mang hai loại hội chiếu. Dự thảo Luật đã bãi bỏ quy định việc yêu cầu thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam phải có hộ chiếu thuyền viên. Đây là quy định đột phá về cải cách hành chính, cải cách TTHC tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân, DN.
Xin cảm ơn ông!
Phương Anh