Tham dự Hội thảo là giảng viên, giáo viên đang
giảng dạy ngôn ngữ Anh đến từ các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông
trong toàn thành phối Hải Phòng. Đoàn trường Cao đẳng Hàng hải I tham dự hội
thảo với sự tham gia của các thầy cô hiện đang tham gia giảng dạy ngôn ngữ Anh
và tham gia tham luận với nội dung “Một số giải pháp tăng cường năng lực giảng
dạy và học tiếng Anh chuyên ngành hàng hải tại Trường Cao đẳng Hàng hải I”.
Ảnh 2: Ths. Nguyễn Quốc Hùng – Nguyên Phó hiệu
trưởng Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Chuyên gia tư vấn cho Đề án ngoại ngữ
2020 tặng quà cho các trường thuộc Hải Phòng
Với vai
trò quan trọng, tiếng Anh không những là ngôn ngữ chung trên thế giới mà còn là
ngôn ngữ của những người đi biển, do đó tiếng Anh đóng một vai trò thiết yếu
trong lĩnh vực hàng hải đặc biệt là vận tải biển. Theo yêu cầu của
Công ước Quốc tế về các tiêu
chuẩn huấn luyện, cấp bằng và trực ca cho thuyền viên của Tổ chức
hàng hải quốc tế (STCW78/95 sửa đổi Manila 2010), yêu cầu đối với thuyền viên cần
phải có năng lực sử dụng tiếng Anh cho mục đích nghề nghiệp. Do đó, việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập tiếng Anh chuyên
ngành cho các đối tượng người học không chuyên ngữ tại các trường đại học và
cao đẳng trên phạm vi cả nước nói chung và trường Cao đẳng Hàng hải I (CĐHHI)
nói riêng là một vấn đề đã và đang thu hút nhiều quan tâm của các nhà quản lý
cũng như các giảng viên đang trực tiếp giảng dạy. Với mục đích đóng góp những
giải pháp làm tăng khả năng sử dụng ngoại ngữ cho sinh viên các trường hàng
hải, bài tham luận này tập trung phản ánh một số vấn đề trong quá trình dạy và
học tiếng anh chuyên ngành hàng hải, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành hàng hải tại Trường Cao
đẳng Hàng hải
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí
do nghiên cứu
Là
một ngôn ngữ mang tính quốc tế, một trong
những ngôn ngữ
phổ
biến
và thông dụng nhất trên thế giới hiện
nay Tiếng Anh là ngoại ngữ đang giảng dạy cho
các đối tượng hệ đào tạo, bồi dưỡng tại nhà trường không chuyên ngữ. Theo quy
định và trong các chương trình đào tạo do Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH, ngoại
ngữ là môn học bắt buộc, chủ yếu nằm trong phần kiến thức chung.
Theo yêu cầu của
Công ước Quốc tế về các tiêu chuẩn huấn luyện, cấp bằng và trực ca cho thuyền viên của Tổ chức hàng hải thế giới (STCW78/2010),
thuyền viên phải có năng lực sử dụng tiếng Anh cho mục đích nghề nghiệp. Trường Cao đẳng Hàng hải
I là một trong những trung tâm lớn đào tạo nguồn nhân lực cho ngành hàng hải,
cung cấp đội ngũ thuyền viên cho các công ty vận tải biển trong và ngoài nước,
xuất khẩu lao động. Do đó, sinh
viên của Trường CĐHHI có động
cơ học tiếng Anh cao, bởi vì sau khi tốt nghiệp, các em sẽ trở thành những thuyền viên trong tương lai, tham gia vào thị trường lao
động quốc tế. Ngoài
những yếu tố như khả năng chuyên môn, kỷ luật lao động các em còn phải chứng minh
khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh trong công việc của mình. Các em sẽ trở thành
những sỹ quan, thủy thủ, thợ máy làm việc trên buồng lái, trong buồng máy điều khiển các con tàu vượt đại dương vận chuyển hàng hoá
và hành khách an toàn đến các cảng trong nước và quốc tế. Khả năng sử dụng tiếng
Anh trong giao tiếp là một trong những tiêu chí quan trọng của các nhà tuyển
dụng cũng như tiêu chí đầu tiên của một nước đang phát triển như Việt Nam khi hội
nhập Quốc tế. Tuy nhiên, đến thời điểm này khả năng sử dụng tiếng Anh của đa số
sinh viên hàng hải sau khi tốt nghiệp chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường xuất
khẩu thuyền viên trong nước và Quốc tế. Do đó, sinh viên sau khi tốt nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.
Với
mong muốn góp phần làm tăng khả năng giao tiếp ngôn ngữ Anh của thuyền viên
Việt Nam, tôi xin phép được thừa kế những thành tựu khoa học của các nhà khoa
học, các nhà quản lý tiền bối để mạnh dạn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực giảng dạy và học tập cho sinh viên.
2. Cơ sở nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận
Người
viết thực hiện bài viết dựa trên cơ sở nghiên cứu thực trạng giảng dạy và học
tập tiếng anh chuyên ngành hàng hải tại trường CĐHHI, cũng như phương pháp lí
luận và giảng dạy tiếng anh.
Thực tế, việc giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành
(English for specific purpose or ESP) không nằm ngoài mục tiêu phát triển đầy
đủ 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) cho học viên cũng như nền tảng
tiếng Anh cơ sở (General English). Cũng như tiếng Anh chuyên ngành, tiếng Anh cho mục đích chuyên nghiệp, mục đích cụ thể, tập trung sự chú ý của người học theo các yêu cầu ngôn
ngữ và giao tiếp trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể, tiếng Anh Hàng hải là để đáp ứng nhu cầu của những người
đi biển. Vì vậy nó có những đặc trưng
riêng của nó, đó là "Đối với thuyền viên để giao tiếp hiệu quả, họ
cần phải có khả năng sử
dụng và hiểu tiếng Anh trong các tình
huống. “Có khả
năng dụng
tiếng Anh” có nghĩa là thuyền viên có
thể kết hợp 'khối xây dựng' của ngôn
ngữ (ngữ pháp, từ vựng, âm vị học)
để diễn tả ý tưởng của mình một cách rõ
ràng và thích hợp. “Có khả năng hiểu được tiếng Anh"có nghĩa là thuyền viên có thể giải thích các bức điện mà họ nghe được, đọc một cách chính xác và trả lời những bức điện này một cách thích hợp và dễ hiểu" (theo Tiếng Anh Hàng hải, Model Course 3.17, trang 72). Bên cạnh đó, thuyền viên phải có khả năng quan sát và mô tả các mục tiêu, các
vùng lân cận, tình trạng biển, điều kiện thời tiết hoặc các dấu hiệu cảnh báo
hàng hải không những bằng tiếng Việt mà còn bằng cả tiếng Anh khi tàu chạy
tuyến Quốc tế.
2.2 Cơ sở pháp lý
-
Thông tư số 11/2012/TT- BGTVT ngày 12/4/2012 của Bộ GTVT Quy định về tiêu
chuẩn chuyên môn, chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên và định biên an toàn tối
thiểu của tàu biển Việt Nam.
-
Chỉ thị số 01/CT-BGTVT, ngày 20/01/2012 của bộ trưởng bộ -BGTVT về việc nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, huấn luyện, huấn luyện thuyền viên và đáp ứng
yêu cầu của công ước STCW 78 sửa đổi 2010;
-
Quyết định 1260/2013/QĐ-BGTVT về Kế hoạch thực hiện Đề án “Triển khai
thực hiện các quy định của Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện,
cấp chứng chỉ và trực ca của thuyền viên năm 1978 sửa đổi năm
2010" do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành.
- Yêu
cầu đối tiếng Anh đối với người đi biển
“Tiếng Anh Hàng hải, Model
Course 3.17” của Tổ chức Hàng hải quốc
tế.
-
Chiến lược phát triển Trường Cao đẳng Hàng hải I đến năm 2020 tầm nhìn đến năm
2030;
2.3 Cơ sở thực tế
Trong bức tranh ảm đạm hiện nay của ngành vận tải
biển nói chung, nổi lên những nét khắc hoạ bất thường về sự thiếu hụt nguồn
nhân lực chuyên nghiệp chất lượng cao. Đặc biệt, hiện nay các công ty xuất khẩu
thuyền viên đang gặp phải những khó khăn trong việc tuyển chọn đủ đội ngũ sỹ
quan thuyền viên có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn tinh thông về ngoại ngữ.
Theo bảng bảng đánh giá chất
lượng thuyền viên của một số quốc gia của Trung tâm nghiên cứu thuyền viên thế
giới Seafarers International Reseach Center thì số thuyền viên Việt Nam xuất khẩu
là hết sức khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực do khả năng ngoại ngữ là
yếu nhất, chỉ gần bằng 10% so với số thuyền viên do Philipine xuất khẩu.
Ngành hàng hải Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn về
nguồn nhân lực, đó là tìm các giải pháp giáo dục và đào tạo đội ngũ thuyền viên
không những có kiến thức vững vàng, kỹ năng thực hành thành thạo mà còn phải có
khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng Anh đáp ứng được những yêu cầu của thị trường
lao động trong nước và quốc tế.
II. THỰC TRẠNG VIỆC GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP TIẾNG
ANH CHUYÊN NGÀNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG HÀNG HẢI I.
1. Thực
trạng về dạy
tiếng Anh chuyên
ngành.
Giảng viên dạy tiếng Anh của trường CĐHHI
đáp ứng yêu cầu chuẩn theo quy định và đang hoạt động trong 2 nhóm chuyên ngành:
Điều khiển tàu biển và Máy tàu thủy. Đội ngũ giảng viên giảng dạy
tiếng Anh nhiệt tình, có tâm huyết, không ngừng phấn
đấu học tập, trau dồi kinh nghiệm, thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy
phù hợp mới các đối tượng học sinh sinh viên.
Hàng năm, giảng viên dạy tiếng Anh luân
phiên nhau tham gia các khóa học ngắn hạn về phương pháp dạy học tích cực trong
và ngoài nước, do đó khả năng chuyên môn và dạy học của giảng
viên tiếng Anh ngày càng được nâng lên
để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy ESP vững về chuyên môn, có kinh nghiệm giảng dạy đáp ứng được yêu cầu về
giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên các năm cuối. Khi giảng dạy, các giảng
viên rất chú trọng về kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh để giúp các em có khả
năng giao tiếp tiếng Anh tốt phục vụ cho công việc sau này của mình. Tuy nhiên, một trong
những hạn chế, khó khăn đó là giảng viên giảng dạy ESP chưa có nhiều kinh
nghiệm và kiến thức sâu rộng về ngành học mà mình giảng dạy, nên “thay vì đi
phỏng vấn các chuyên gia trong ngành đó, phân tích ngôn ngữ cần thiết trong
chuyên ngành đó, thậm chí là phân tích nhu cầu của học viên, thì nhiều giảng
viên ESP đã phụ thuộc vào những giáo trình đã xuất bản sẵn mà không đánh giá
được mức độ phù hợp của chúng… hoặc ngại tiến hành những phân tích cần thiết về
những bài khóa chuyên môn khó để rồi sửa đổi nội dung của chúng cho phù hợp” –
theo Laurence Anthony (1997).
Giảng
viên giảng dạy ESP đôi khi chịu áp lực khi giảng dạy vì phải tìm tòi học hỏi về
kiến thức chuyên môn của môn học. Mặc
dù, đã có sự phối kết hợp giữa
giảng viên giảng dạy tiếng Anh với giảng viên chuyên ngành, nhưng đôi khi
cũng
còn có nhiều trở ngại trong việc chuyển tải nội dung bài học tới các em một cách thực sự có hiệu quả bởi chính họ cũng không
được đào tạo
về
các chuyên ngành này. Thực tế, nhiều giảng viên còn thụ động, thiếu
tự tin trong khi truyền tải nội dung chuyên ngành đến sinh viên.
2. Thực trạng về học tiếng Anh chuyên
ngành của
sinh viên
Mặc dù tiếng Anh là môn học bắt buộc ở cấp học
phổ thông nhưng trình độ tiếng Anh của
học sinh khi mới vào trường vẫn còn rất kém, điều đó phản ánh thực trạng là
lượng kiến thức về ngoại ngữ mà các
em tích luỹ được ở phổ thông không tương
xứng với thời lượng mà sinh viên đã được
học. Lỗ hổng kiến thức của sinh viên thật sự đáng báo động. Các kỹ năng ngôn
ngữ của sinh viên còn rất hạn chế, đặc biệt là các kỹ năng nghe, nói. Khả năng
nghe và nắm bắt thông tin của đại đa số các sinh viên là dưới mức trung bình.
Ngoài ra, cũng có rất nhiều các em sinh viên đến từ các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa của các tỉnh miền núi phía Bắc nơi việc dạy và học tiếng Anh rất
ít được chú trọng. Một số khác chưa biết chút gì về tiếng Anh vì bản thân các
em khi học ở các trường phổ thông các em lại học các ngôn ngữ khác như tiếng
Pháp, tiếng Trung v.v...
ESP được đưa vào chương trình giảng dạy cho sinh viên sau khi các em kết
thúc chương trình GE. Đây là một thuận lợi bởi phần lớn là
các em nhớ và
vận dụng được vốn kiến thức mình vừa được học, tạo đà cho việc học ESP. Tuy nhiên, kiến thức nền GE của sinh
viên phần lớn còn hạn chế, khả năng giao tiếp còn yếu. Tốc độ học nhanh, khối
lượng kiến thức phải tiếp nhận nhiều, sự chênh lệch về trình độ và yếu tố vùng
miền thực sự là một khó khăn đối với cả sinh viên và người dạy. Hơn thế nữa,
việc bắt đầu học ESP nối tiếp ngay sau GE
bên cạnh thuận lợi đã được nêu ở trên thì đồng thời cũng lại là một khó khăn đối với sinh viên bởi ở thời điểm này các em hầu như chưa được trang bị
một
chút
kiến
thức nào về chuyên
môn bằng tiếng Việt. Mặc dù các nội
dung tiếng Anh chuyên ngành chưa chuyên sâu về các mảng kiến thức chuyên môn nhưng cũng là
những vấn đề không
đơn
giản, nhất là
khi chúng được thể hiện bằng tiếng Anh.
3. Thực trạng về giáo trình
Do
một số nguyên nhân chủ quan và khách quan mà giáo trình ESP chưa đáp ứng được
yêu cầu môn học. Kinh phí biên soạn giáo trình còn hạn hẹp và phân bố chưa thỏa
đáng nên không có đủ kinh phí để thực hiện các điều tra thực tiễn về chuyên
môn. Chính vì vậy giáo trình tiếng Anh đa phần được biên soạn từ các giảng viên
có kiến thức về tiếng Anh, nhưng hạn chế về mặt chuyên môn, dựa trên kinh
nghiệm và nhận định chủ quan. Giáo trình chủ yếu được biên soạn và sưu tầm từ
các nguồn tài liệu sẵn có, thiếu tính liên kết, logic, hệ thống, rời rạc về nội
dung và chưa sát với thực tiễn nhu cầu của người học, ngành học và đi sâu vào thực
tiễn công việc.
Với
thời lượng hạn chế, chương trình học không thể bao quát được những nội
dung
cơ bản và quan trọng, lại càng
không thể đi sâu vào các chuyên ngành hẹp mà các em được đào tạo. Một
số kiến thức chuyên ngành có nhiều khái niệm và thuật ngữ chuyên môn đặc thù và khó, cấu trúc câu dài
và phức tạp gây khó hiểu
đối với sinh
viên.
4.
Thực trạng về cơ sở vật chất
Điều kiện cơ sở vật chất của Nhà trường còn nhiều hạn chế.
Hầu hết các lớp học tiếng Anh trong nhà trường chưa đạt chuẩn, không được thiết
kế riêng cho việc dạy và học ngoại ngữ. Các phòng học không cách âm, bàn ghế
sắp xếp theo kiểu truyền thống, chỉ phù hợp cho phương pháp thuyết trình, giảng
giải, chưa phù hợp cho phương pháp dạy học tương tác.
Bên cạnh những khó khăn về cơ sở vật chất là số lượng sinh
viên quá đông trong một lớp học, khoảng 30 - 40, thường gấp hơn hai lần số sinh
viên của một lớp học ngoại ngữ chuẩn. Thiết bị hỗ trợ việc dạy tiếng Anh còn
chưa tương xứng với quy mô của nhà trường.
III.
MỤC TIÊU
1.Mục tiêu chung
Thực
hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong nhà trường nhằm đảm bảo đến năm 2015 đạt được bước tiến
rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, đặc biệt là
lĩnh vực hàng hải. Đến năm 2020, Giáo viên dạy tiếng Anh nói chung và giáo viên
dạy chuyên môn một số môn bằng tiếng Anh
nói riêng thành thạo cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc viết theo chuẩn chung
Châu Âu; đa số sinh viên tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng có đủ năng lực sử dụng
ngoại ngữ một cách độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi
trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ thành thế mạnh của người
dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.Mục tiêu cụ thể
2.1
Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục nghề
nghiệp gồm TCCN, Dạy nghề cho khoảng 60% vào năm học 2015 -2016 và đạt 100% vào
năm học 2019 - 2020. Đảm bảo sinh viên học nghề sau khi tốt nghiệp phải đạt
trình độ tối thiểu theo quy định Bậc 2 theo khung năng lực ngoại ngữ (Bảng 4 - Đề án dạy và học ngoại ngữ giai đoạn
2008-2020), sinh viên các ngành đi biển phải đạt trình độ cấp độ 1 (Level 1)
theo quy định tại Thông tư 11/2012/TT-BGTVT.
2.2
Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục đại học
gồm cao đẳng hệ chính quy cho khoảng 60% sinh viên vào năm học 2015 - 2016 và
100% vào năm học 2016 - 2017. Đảm bảo sinh viên tốt nghiệp cao đẳng phải đạt
trình độ tối thiểu quy định Bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ, sinh viên
ngành đi biển phải đạt trình độ Level 2 theo quy định tại Thông tư
11/2012/TT-BGTVT.
2.3
Đến năm 2015, 100% đội ngũ giảng viên ngoại ngữ được đào tạo, bồi dưỡng cả về
chuyên môn lẫn nghiệp vụ sư phạm.
2.4
Đến năm 2020, 100% giảng viên ngoại ngữ cốt cán của nhà trường được đi tham
quan, học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở nước ngoài.
2.5
Đến năm 2015, cơ sở đào tạo của nhà trường có 2-3 phòng nghe nhìn, phòng đa
phương tiện và có đủ các trang thiết bị thiết yếu đảm bảo đáp ứng cho việc dạy và học ngoại ngữ.
2.6
Đến năm 2015, trong các ngành đi biển chọn một số môn học chuyên môn được giảng
dạy bằng tiếng Anh với đối tượng trình độ cao đẳng, cao đẳng nghề.
IV. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ giảng
viên dạy tiếng Anh, giảng viên dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh
- Xây dựng lộ trình: Giai đoạn 2013 - 2014, kiểm
tra rà soát 100% giảng viên tiếng Anh.
Giai đoạn 2015 - 2016, bồi dưỡng cho 60% giáo viên tiếng Anh và có chứng chỉ quốc
tế IELTS (7.0). Phấn đấu đến năm 2020, 100 % giảng viên ngoại ngữ bên cạnh năng lực ngoại ngữ đạt chuẩn C1 hoặc
C2 còn phải có trình độ tiếng Anh hàng hải cấp độ 2 hoặc 3 theo chuẩn của Tổ chức
hàng hải quốc tế (IMO); giảng viên dạy một số môn chuyên ngành bằng tiếng Anh đạt
chuẩn B2, trình độ tiếng Anh hàng hải cấp độ 3 theo Quyết định 1400/QĐ-TTg,
Công văn 3051/BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Thông tư số
11/2012/TT-BGTVT.
- Tăng cường khả năng nghe, nói chuẩn cho giảng
viên tiếng Anh bằng cách tạo cơ hội cho
giảng viên tiếng Anh được tiếp
xúc với giáo viên bản ngữ, tạo cơ hội cho giảng viên tiếng Anh được nâng cao
trình độ, trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài. Phấn đấu đến 2015, phần lớn giảng
viên tiếng Anh có thể nghe và hiểu bài do chuyên gia nước ngoài giảng dạy. Phấn
đấu đạt 100% vào năm 2017.
2. Giải pháp
nâng cao chất lượng dạy và học tiếng anh chuyên ngành
-
Các giảng viên dạy ESP có thể linh hoạt áp dụng những phương thức giảng dạy
khác nhau tùy vào nội dung và đặc thù của mỗi ngành học. Việc chú trọng cả 4 kĩ
năng ngôn ngữ là cần thiết, không nên bỏ hẳn, hoặc nghiêng về một kỹ năng nào.
-
Nên có một số tiết dạy phối hợp (co - teaching) giữa giảng viên tiếng Anh và
giảng viên chuyên ngành. Trong quá trình giảng dạy, nên bố trí học viên tham
quan học tập thực tiễn, thực tế tại các phòng mô phỏng, trên các con tàu, tại
các cảng biển hoặc tại các trung tâm huấn luyện có chuyên môn phù hợp với định
hướng nghề nghiệp của học viên.
-
Giảng viên nên có những buổi sinh hoạt chuyên môn, thảo luận định kỳ với các
giảng viên ESP khác, với các giảng viên chuyên ngành và với các sinh viên đang
học học phần ESP để tìm ra phương pháp dạy và học ESP hiệu quả, phù hợp nhất.
-
Giảng viên nên chủ động chú trọng cung cấp một số thuật ngữ chuyên ngành của
ngành học và giảm bớt các bài tập nặng về ngữ pháp nếu sinh viên đã được học
các nội dung ngữ pháp ấy trong phần GE. Cần rèn luyện cho sinh viên kỹ năng đọc
hiểu và dịch thuật các tài liệu chuyên môn để sinh viên có thể tự học, tự
nghiên cứu thêm các tài liệu chuyên môn bằng tiếng anh. Chú trọng phát triển kỹ
năng giao tiếp để sinh viên có thể sử dụng tiếng anh giao tiếp tự tin và xử lý
các công việc trên tàu.
-
Phân chia công việc theo nhóm, theo cặp để học viên có điều kiện tương tác,
phát huy kỹ năng làm việc theo nhóm, hỗ trợ nhau về công việc. Tổ chức các buổi
thuyết trình nhóm, các hoạt động tiếng Anh như Olympic tiếng Anh,
Festival tiếng Anh, thi hùng biện tiếng Anh, thi tìm hiểu về Việt Nam, về ngành
Hàng hải bằng tiếng Anh, các câu lạc bộ tiếng Anh cấp khoa và cấp trường để sinh viên thể hiện
được khả năng giao tiếp bằng tiếng anh về nội dung chuyên ngành đang được học.
Đồng thời lồng ghép hoạt động này vào việc kiểm tra đánh giá môn học để sinh
viên có động cơ tự học, tự nghiên cứu.
-
Cần làm công tác hướng nghiệp cho sinh viên một cách hiệu quả, để họ có nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của ESP với công việc thực tế sau này. Tổ chức
hội thảo về phương pháp giảng dạy và học tập ESP thường xuyên ở đầu mỗi kỳ học
để sinh viên có thể học hỏi kinh nghiệm từ các giảng viên và các sinh viên khóa
trước.
- Triển
khai thí điểm dạy tiếng Anh chuyên
ngành theo chương trình tiếng Anh hàng hải
Model course 3.17 của tổ chức Hàng hải quốc tế
cho các ngành đi biển hệ Cao đẳng
năm học 2014 - 2015 và mở rộng dần quy mô cho
các hệ Liên thông Cao đẳng và trung cấp năm 2015 – 2016.
- Năm học 2017, triển khai dạy một số môn
chuyên môn bằng tiếng Anh cho sỹ quan và sinh viên ngành đi
biển đáp ứng yêu cầu của Chương 5 Khoản 6 của Thông tư số 11/2012/TT-BGTVT quy
định về tiêu chuẩn chuyên môn của thuyền viên.
3. Về việc biên soạn giáo trình
Để
đạt được hiệu quả trong việc dạy và học ESP , những chuyên gia hoặc giảng viên
xây dựng khung chương trình và biên soạn giáo trình cần chú ý đến yếu tố nhu
cầu thực tế của ngành đi biển để đưa ra một khung chương trình và khối lượng
kiến thức phù hợp. Cần có sự cộng tác giữa hai nhóm giáo viên: giáo viên chuyên
ngữ và giáo viên chuyên ngành để có sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau trong việc
biên soạn giáo trình.
Thời
lượng phân bố cho từng bài học cũng cần hợp lý và khoa học. Nội dung bài học
cần chọn các nội dung có liên quan đến ngành học để học viên có
thể tiếp thu được môt lượng kiến thức chuyên môn nhất định sau khi học
xong học phần. Việc phân bổ bài học cũng phải dựa trên sự phân bố hợp lí với
các môn học về chuyên môn. Trong mỗi bài học cần lồng ghép tất cả các kỹ năng,
các bài tập thực hành, các tình huống giao tiếp trong công việc của thủy thủ,
thợ máy trên tàu….. Nên thiết kế phần phụ lục riêng về từ vựng cho mỗi một bài
học, Nếu có điều kiện giáo viên nên gợi ý các trang web hay tài liệu tham khảo,
để học viên tạo lập được thói quen tự tìm tòi học hỏi ở nhà hoặc giới thiệu và
cung cấp các từ điển chuyên ngành để học viên tham khảo thêm.
4. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất và trang thiết bị thiết yếu phục vụ
cho việc dạy và học ngoại ngữ:
- Rà
soát lại trang thiết bị dạy ngoại ngữ trong Nhà trường.
- Xây dựng danh mục thiết bị dạy và học
ngoại ngữ cho từng cấp học và trình độ đào tạo.
- Tiến hành mua sắm và trang bị các
trang thiết bị dạy và học tiếng Anh phù hợp trang bị các phòng học tiếng Anh,
phòng nghe nhìn và phòng đa phương tiện đạt chuẩn.
- Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và kỹ
thuật viên nhằm sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy và học ngoại ngữ, khai
thác đúng mục đích các nguồn thông tin, tư liệu nước ngoài, đặc biệt là Internet,
phục vụ cho việc dạy và học ngoại ngữ.
- Xây dựng chương trình tiếng Anh tăng
cường cho hệ Cao đẳng Chính quy các ngành mũi nhọn của trường để làm căn cứ
biên soạn giáo trình, tài liệu, kế hoạch giảng dạy.
- Thống kê các chương trình, giáo
trình tiếng Anh và các môn chuyên môn sẽ
phải dạy bằng tiếng Anh .
5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế:
- Mở rộng, đa dạng hóa các loại hình
hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực đi biển, xuất khẩu lao động
tham gia vào hỗ trợ cho các hoạt động dạy và học tiếng Anh, hoạt động ngoại
khóa như Olympic, Festival, thi hùng biện bằng tiếng Anh,… tạo ra nhiều sân
chơi bổ ích, lành mạnh cho sinh viên được sử dụng tiếng Anh.
- Tạo điều kiện thuận lợi và sẵn sàng
đón tiếp các chuyên gia, giảng viên có trình độ cao ở nước ngoài tới thăm và
tham gia các hội nghị, hội thảo tập huấn cho giảng viên. Cử cán bộ quản lý, giảng viên tham dự
các khoá bồi dưỡng, các hội nghị, hội thảo quốc tế về dạy học ngoại ngữ ở trong
và ngoài nước.
V. Kết luận
Trên
đây là một số giải pháp của cá nhân tác giả dựa trên quan sát thực tế cũng như kinh
nghiệm từ quá trình trực tiếp giảng dạy và học tập tiếng anh chuyên ngành hàng
hải. Để thực sự xây dựng được một chương trình cũng như giáo trình tiếng anh
chuyên ngành bài bản, có khoa học, phù hợp và mang lại hiệu quả thực tiễn theo
hướng chú trọng vào người học, đáp ứng nhu cầu của người học không phải là đơn
giản, nhưng lại là một việc rất nên làm, và nên làm càng sớm càng tốt. Có như
vậy mới giúp nhà trường tiết kiệm được nhiều tiền của và công sức của các đơn
vị đào tạo, và đồng thời tạo ra cho xã hội nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cao, ngoại ngữ thành thạo để bắt kịp với hiện đại hóa, toàn cầu hóa.
Trong
phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung phản ánh một số vấn đề có liên quan
tới việc giảng dạy tiếng anh chuyên ngành hàng hải cũng như nhu cầu người học. Bài viết có thể mang
nhiều tính chủ quan song tôi hy
vọng rằng những ý kiến của mình có thể làm cơ sở cho các nhà quản lý
điều chỉnh chiến lược; các giảng viên tham khảo trong việc biên soạn chương
trình, giáo trình và đổi mới phương pháp giảng dạy; các em sinh viên
sử dụng để tham khảo và điều chỉnh việc học
tiếng Anh của mình sao cho các em có thể lĩnh hội được kiến thức một cách
trọn vẹn, đầy đủ nhất. Mong rằng tiếng
Anh sẽ thực sự trở thành một công cụ
hữu
hiệu, là hành trang giúp các em có thể tự tin vững bước vào tương lai, và
hoàn thành tốt công việc của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bouzidi H. (2009). Between the ESP
Classroom and the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching Forum, No 3.
[2] Canale, M. and Swain, M. (1980). Theoretical bases of communicative approaches to second language
teaching and testing. Applied Linguistics 1, 1-47.
[3] Hutchinson,
T. and A. Water (1987). English for
Specific Purposes: A Learning centred Approach. Cambridge: CUP.
[4] Lawson, K. H. (1979), Philosophical
Concepts and Values in Adult Education. Milton:
Open University.
[5] Luka, I. (2009) Development of
Students’ English for Specific Purposes. Competence in Tourism Studies at
tertiary Level. English for Specific
Purposes World, Issue 4 (25), Volume 8. Online Journal for Teachers at http://esp-world.info, retrieved on 12 March 2010
[6] Savas, B. (2009). Role of
Functional Academic Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in Turkey for
Sustainable Development. The Journal of
International Social Research. Volume 2/9.
[7] Widdowson, H. G. (1978). Teaching
Language as Communication. London: OUP
[8]
Widdowson, H.G. (1981). English for
Specific Purposes: Criteria for Course Design in English for Academic and
Technological Purposes, Eds. L. Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley.
Mass; Newburry
[9] Zhang, Zuocheng (2007).
Towards an Integrated Approach to Teaching Business English: A Chinese
Experience. English for Specific
Purposes, v26 n4 p399-410.
[10].
IMO (2000), Maritime English-Model course 3.17, IMO Publication
Thông tin về tác giả:
Họ
và tên: Nguyễn Thanh Thủy
Chức
vụ: Giảng viên thuộc Trung tâm Ngoại ngữ - Trường Cao Đẳng Hàng Hải I
Học
vị: Thạc sỹ (chuyên ngành lí luận và phương pháp giảng dạy Tiếng Anh)
Email : thanhthuy.mc1@gmail.com